Huyện Vĩnh Bảo nằm ở phía nam của thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 40 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Tiên Lãng; Phía tây giáp huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình và huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; Phía nam giáp huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; Phía bắc giáp huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Huyện có Quốc lộ 10 sang Thái Bình (hướng Tây Nam), hướng ngược lại lên phía Bắc là hướng đi trung tâm thành phố Hải Phòng qua các huyện Tiên Lãng, An Lão. Huyện Vĩnh Bảo được bao bọc kín xung quanh bởi ba con sông: Sông Luộc phía Tây Bắc, là ranh giới của huyện với tỉnh Hải Dương; Sông Hóa ở phía Tây Nam và Nam, gần như là ranh giới của huyện với tỉnh Thái Bình; Sông Thái Bình làm ranh giới giữa huyện Vĩnh Bảo với huyện Tiên Lãng. Huyện Vĩnh Bảo là một huyện giữ vai trò trọng yếu trong phát triển vùng kinh tế ngoại thành Hải Phòng. Điểm cực Đông của huyện là cửa của sông Hóa đổ vào sông Thái Bình, trước khi sông Thái Bình đổ ra vịnh Bắc Bộ (biển Đông). Vĩnh Bảo có diện tích 183,30 km², dân số là 182.835 người (2020); 6% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Huyện Vĩnh Bảo thành lập vào năm Minh Mạng thứ 19 (1838) từ 5 tổng của huyện Tứ Kỳ (An Bồ, Bắc Tạ, Viên Lang, Đông Tạ, Can Trì) và 3 tổng của huyện Vĩnh Lại (Thượng Am, Đông Am và Ngải Am). Huyện lỵ lúc đầu ở tổng An Bồ, sau di dời về tổng Đông Tạ, đều nằm ở địa giới huyện Tứ Kỳ cũ, nên lịch sử huyện Vĩnh Bảo thời trước khi thành lập (1838) là theo lịch sử của các huyện Tứ Kỳ và Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Thời Hán (206 TCN – 220) vùng đất Vĩnh Bảo thuộc quận Giao Chỉ. Đời nhà Đinh và Tiền Lê (970 – 1009) thuộc Hồng Châu. Thời Lý (1010 – 1225) thuộc lộ Hồng. Thời Trần (1226 – 1400) vùng đất Vĩnh Bảo thuộc châu Hạ Hồng, phủ lộ Tân Hưng. Thời nhà Hồ (1400 – 1407) vùng đất này thuộc phủ lộ Tân Hưng, trấn Hải Đông. Thời thuộc Minh hay còn gọi là Hậu Trần (1407 – 1427) vùng đất Vĩnh Bảo thuộc địa bàn châu Hạ Hồng, phủ Tân An (Yên). Thời Lê sơ (1428 – 1527) vùng đất Vĩnh Bảo thuộc lộ Nam Sách, sau là thừa tuyên Nam Sách. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) thừa tuyên Nam Sách đổi thành thừa tuyên Hải Dương và năm Hồng Đức thứ 21 (1490) thừa tuyên Hải Dương đổi thành xứ Hải Dương. Năm Hồng Thuận nguyên niên (1509) xứ Hải Dương đổi thành trấn Hải Dương. Từ năm Minh Đức nguyên niên (1527) đến năm Hồng Minh thứ 2 (1592) thời nhà Mạc, trấn Hải Dương đổi thành đạo Hải Dương. Thời Lê trung hưng đổi thành trấn Hải Dương như cũ. Thời Tây Sơn từ năm Thái Đức nguyên niên (1778) đến năm Bảo Hưng thứ 2 (1802) thuộc phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Từ năm Gia Long nguyên niên (1802) đến năm Gia Long thứ 12 (1813) thuộc phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Năm 1822 phủ Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang, còn phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang. Từ thời gian này 4 huyện (hoặc phân phủ) thuộc phủ Ninh Giang là Gia Lộc, Thanh Miện, Tứ Kỳ và Vĩnh Lại. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838) nhà Nguyễn cắt 5 tổng của huyện Tứ Kỳ (An Bồ, Viên Lang, Đông Tạ, Bắc Tạ, Can Trì), 3 tổng của huyện Vĩnh Lại (Đông Am, Thượng Am, Ngải Am) thành lập ra huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương.[4]. Từ năm Tự Đức thứ 5 (1852) thì phủ Ninh Giang kiêm nhiếp cả huyện Vĩnh Bảo. Đến năm 1890, phần đất 3 tổng còn lại (Kê Sơn, An Lạc và Hạ Am) bên triền tả sông Hóa từ ngã ba Tranh đến sông Thái Bình của huyện Vĩnh Lại và làng Tranh Chử được giao cho huyện Vĩnh Bảo và Vĩnh Bảo được mở rộng tới 11 tổng, cuối thế kỷ XIX tổng Bắc Tạ tách làm 2 tổng là Uy Nỗ và Bắc Tạ và Vĩnh Bảo từ 1901 có 12 tổng gồm 2 lục tổng. Từ cuối năm 1952, huyện Vĩnh Bảo thuộc tỉnh Kiến An. Từ ngày 27 tháng 10 năm 1962, tỉnh Kiến An sáp nhập vào thành phố Hải Phòng, từ đó Vĩnh Bảo là một huyện ngoại thành của Hải Phòng. Từ lúc ban đầu sáp nhập, huyện gồm 25 xã, đến năm 1956 mở thêm 4 xã thành 29 xã như hiện nay. Ngày 18 tháng 3 năm 1986, thành lập thị trấn Vĩnh Bảo - thị trấn huyện lỵ huyện Vĩnh Bảo - trên cơ sở 223,8 ha diện tích tự nhiên với 4.336 nhân khẩu của xã Tân Hưng và 28 ha diện tích tự nhiên với 1.061 nhân khẩu của xã Nhân Hòa. Huyện Vĩnh Bảo (2020) có 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Vĩnh Bảo (huyện lỵ) và 29 xã: An Hòa, Cao Minh, Cổ Am, Cộng Hiền, Đồng Minh, Dũng Tiến, Giang Biên, Hiệp Hòa, Hòa Bình, Hưng Nhân, Hùng Tiến, Liên Am, Lý Học, Nhân Hòa, Tam Cường, Tam Đa, Tân Hưng, Tân Liên, Thắng Thủy, Thanh Lương, Tiền Phong, Trấn Dương, Trung Lập, Việt Tiến, Vĩnh An, Vĩnh Long, Vĩnh Phong, Vinh Quang, Vĩnh Tiến.
Về Danh nhân Vĩnh Bảo có: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1586), người xã Trung Am, huyện Vĩnh Lại, nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo. Phạm Đức Khản (? - ?), người xã Hội Am (tên Nôm là Cối, Cõi), huyện Vĩnh Lại, nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đại Hòa 6 (1448) đời Lê Nhân Tông. Làm quan đến chức Tả thị lang. Đào Văn Hiển (? - ?), người xã An Bồ, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn An Bồ, xã Dũng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận 4 (1463) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Thượng thư Bộ hình. Phần mộ của ông mang tên Mả Nghè còn giữ được nằm ngay sát UBND xã Dũng Tiến. Dương Đức Nhan (? - ?), người xã Hà Dương, huyện Vĩnh Lại, nay là thôn Hà Dương, xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận 4 (1463) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Hình bộ Hữu thị lang, tước Dương Xuyên hầu. Tác phẩm có bộ Tinh tuyển thi tập (tức Tinh tuyển cổ kim chư gia thi tập) là một hợp tuyển thơ chữ Hán rất nổi tiếng. Nguyễn Duy Tiếu (? - ?), người xã Đông Lại, huyện Vĩnh Lại. Nay là thôn Đông Lại xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức 6 (1475) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến Tự Khanh. Nguyễn Cối (? - ?), người xã Hội Am (tên Nôm là Cối, Cõi), huyện Vĩnh Lại, nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Hồng Đức 9 (1478) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Tự khanh. Nguyễn Sâm (? - ?), người làng Đông Tạ, huyện Tứ Kỳ. Nay thuộc thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời Lê Thánh Tông. Nguyễn Minh Đạt (? - ?), người xã Đông Quất, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn Tràng, xã Tam Đa. Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493) đời Lê Thánh Tông. Tên thần là Đại lý Tự khanh Quế Nham bá Nguyễn Tướng Công tôn thần. Làm quan tới chức Thượng thư bộ Hình, đi sứ nhà Minh, mất tại Trung Quốc. Trước năm 1938 có miếu thờ năm gian ở xứ Đồng Châu (xã Tam Đa ngày nay). Nguyễn Bá Tùng (? - ?), người xã Tạ Xá, huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương (cùng quê với Nguyễn Duy Tinh). Nay là thôn Tạ Ngoại và thôn Nội Tạ, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiến Tông. Nguyễn Đình Tộ (1482 - ?), người xã Đông Quất, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn Tràng, xã Tam Đa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa thi năm Mậu Thìn (1508) niên hiệu Đoan Khánh thứ 4, làm quan đến chức Tham Chính xứ Hưng Hóa. Nguyễn Duy Tinh (? - ?), người xã Tạ Xá, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương (cùng quê với Nguyễn Bá Tùng), nay là thôn Tạ Ngoại và thôn Nội Tạ, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Đại Chính 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh, cùng khoa thi với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Làm quan tới chức Thừa Chính sứ, về trí sỹ. Phạm Tri Chỉ (? - ?) người xã Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ. Nay là xóm Tường Vân, thôn Phương Tường, xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thuần Phúc 4 (1568) đời Mạc Mậu Hợp. Trước làm quan nhà Mạc, sau làm quan nhà Lê đến chức Hữu Thị lang. Nguyễn Sư Khanh (1566 - ?), người xã Đông Quất, tổng Hu Trì, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn Tràng, xã Tam Đa, huyện Vĩnh Bảo. 27 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592) đời Mạc Mậu Hợp. Quy thuận nhà Lê làm quan đến chức Đô cấp sự trung Hình khoa. Mất trên đường đi sứ nhà Minh. Theo tư liệu dân gian, Nguyễn Sư Khanh chết vì đắm thuyền trên đường đi sứ tại cửa Thần Phù (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay). Ông là cháu của khoa bảng Nguyễn Đình Tộ. Đặng Duy Minh (1551 - ?), người xã Tranh Khê, tổng An Bồ, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn Tranh Nguyên, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo. Năm 50 tuổi đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hoằng Định 6 (1604) đời Lê Kính Tông. Làm quan đến chức Đô cấp sự trung. Hiện nay, mộ ông vẫn ở thôn Tranh Nguyên, xã Vĩnh An. Trần Lương Bật (1642 - ?), người xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại. Nay là thôn Cổ Am, xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. 34 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị 2 (1664) đời Lê Huyền Tông. Làm quan đến chức Binh bộ Hữu thị lang, tước Nam. Sau khi mất được truy tặng chức Tả thị lang. Đào Công Chính (1639 – 1709), người xã Hội Am (tên Nôm là Cõi), huyện Vĩnh Lại. Nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. 23 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sỹ cập đệ Đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ 4 (1661) đời Lê Thần Tông. Ông giữ chức Phủ doãn phủ Phụng Thiên, được cử đi sứ nhà Thanh (1673). Khi trở về xét công đi sứ, được thăng hữu thị lang bộ Hình, Nhập thị kinh diên, tước nam. Sau khi mất được truy tặng Lại bộ Hữu thị lang, tước tử.. Tác phẩm: Bắc sứ thi tập 53 bài; Bảo sinh diên thọ toát yếu; Nam Sơn thực lục; Đồng biên tập: Đại Việt sử ký toàn thư (khảo đính). Trần Công Hân (1702 - ?), người xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại. Nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Thi hương đỗ giải nguyên. 32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời Lê Huy Phường. Làm quan đến chức Hàn lâm viện Đãi chế (trật Chánh tứ phẩm trở xuống). Tử trận được truy tặng chức Đông các đại học sỹ. Nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Văn Ngọ (1906 – 1954), quê thôn Hạ Đồng, xã Cộng Hiền (xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ). Vào đảng Cộng sản Việt Nam 08/1929, năm 1930 là ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, trực tiếp chỉ huy phong trào nông dân khởi nghĩa ở Tiền Hải, nguyên Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Vĩnh Bảo (22/08/1945 đến 20/12/1945), nguyên Bí thư kiêm Chủ tịch tỉnh Thái Bình từ năm 1946 đến năm 1951, hy sinh năm 1954 tại Trung Quốc và được Trung Quốc vinh danh là Liệt sỹ. An Táng tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn – Bắc Kinh, đến năm 1994 được Nhà nước chuyển về an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội. Nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Đức Cảnh (1908 - 1932), con đẻ bà Trần Thị Thùy thôn Tràng Thọ, xã Cổ Am. Vào đảng 03/1929, là Bí thư đầu tiên của Thành ủy Hải Phòng và là Tổng biên tập đầu tiên của báo Lao động, Chủ tịch Công hội đỏ đầu tiên, tiền thân của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam. Nhà cách mạng Triệu Thị Đỉnh (1912 – 2007), phu nhân ông Nguyễn Văn Ngọ, Đảng viên năm 1930, Ủy viên xứ ủy Bắc Kỳ, cố Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Bắc Thái, huy hiệu 75 năm tuổi Đảng. Lê Duy Thái (1702 - ?), người xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại. Nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh năm Quý Dậu. Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846). Năm 36 tuổi đỗ Phó bảng Ân khoa Mậu Thân niên hiệu Tự Đức 1 (1848). Làm quan Tri phủ. Tướng công Đào Trọng Kỳ, quan nhà Nguyễn, Phủ doãn Thừa Thiên, Nam Định, Tổng đốc Sơn Tây. Người có công lớn trong việc đào sông Chanh Dương. Cử nhân Trần Mỹ, nguyên Tri phủ huyện Hoài Đức Hà Tây thời nhà Nguyễn. GS. TSKH. Đào Trọng Đạt, sinh năm 1932, quê xã Cổ Am, nguyên Viện trưởng Viện Thú y Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. GS. TS. NGUT. Đào Văn Lượng, sinh năm 1945, quê xã Cổ Am, nguyên giảng viên Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, nay là Hiệu trưởng Đại học Công nghệ Sài Gòn (STU) thành phố Hồ Chí Minh. GS.TS.VS. Đào Trọng Thi, quê gốc xã Cổ Am sinh năm 1951, nguyên giảng viên Đại học Tổng hợp Hà Nội, nguyên Hiệu trưởng Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Quốc hội các khóa XI và XII, đại biểu Quốc hội các khóa XI và XII, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, IX, X, XI. GS.TS. Trần Tiến, sinh năm 1934, quê gốc xã Cổ Am, nguyên cán bộ Viện hàn lâm Khoa học Paris - Pháp (con trai nhà văn Trần Tiêu), sinh sống tại Pháp. GS.TS. Trần Bảng, sinh năm 1926, quê gốc xã Cổ Am, nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Trung ương, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật Sân khấu Bộ Văn hoá - Thông tin (con trai nhà văn Trần Tiêu). GS. Đào Nguyên Cát, sinh năm 1927, quê xã Cổ Am, nguyên giảng viên Trường Đảng cao cấp, sau đó làm Tổng Biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam. GS. Trung tướng Hoàng Phương, tên thật là Hoàng Đình Tý, sinh năm 1924, quê xã Cổ Am, nguyên Chủ nhiệm chính trị Học viện quân chính, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Lịch sử Quân đội. Đại biểu Quốc hội khóa V và VI. GS. TS. NGUT. Đại tá Đào Trọng Thắng, sinh năm 1956, quê xã Cổ Am, Chủ nhiệm Khoa động cơ Học viện Kỹ thuật quân sự. GS. TSKH. Đặng Văn Bát, sinh năm 1944, quê xã Vĩnh Tiến, Chủ tịch Hội đồng Địa chất và Dầu khí Việt Nam, nguyên giảng viên Đại học Mỏ Địa chất, Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về Khoa học & Công nghệ. GS. TS. Tạ Hòa Phương, sinh năm 1949, quê xã Dũng Tiến, nguyên giảng viên Khoa Địa chất Đại học Khoa học tưn nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nay là Viện trưởng Viện nghiên cứu Cổ sinh. Chủ tịch Hội Cổ sinh Địa tầng Việt Nam. GS. TS. NGUT. Nguyễn Đình Tảo, sinh năm 1955, quê xã Vĩnh Phong,nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Mô phôi, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo Nghiên cứu Công nghệ Phôi, Học viện Quân Y, Bộ Quốc Phòng. PGS. TS. TTND. BSCC. Trần Trọng Hải, sinh năm 1947, quê xã Cổ Am, Chủ tịch Hội Phục hồi chức năng Việt Nam, thành viên Viện Hàn lâm Khoa học New York. TSKH. Đào Văn Cường, sinh năm 1948, quê xã Cổ Am, hiện làm việc tại Canada. TSKH. Bùi Duy Thành, sinh năm 1960, quê xã Cổ Am, cán bộ Viện Nghiên cứu Nguyên tử Quốc gia. PGS. TSKH. Đại tá, Liệt sỹ Đào Hữu Chí, sinh năm 1944, quê xã Cổ Am, cố giảng viên Học viện Kỹ thuật quân sự. PGS. TSKH. NGUT. Nguyễn Hải Kế (1954 – 2013), quê xã Tân Liên, cố Chủ nhiệm khoa Sử Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội. GS. TS. Đoàn Đức Việt, sinh năm 1944, quê xã Nhân Hòa, giảng viên Viện Kinh tế Á Châu, Quảng Châu, Trung Quốc. Nhà giáo nhân dân Đỗ Trung Bích, sinh năm 1927, quê xã Cổ Am, nguyên giảng viên Học viện An ninh, Bộ Công An. PGS. TS. Nguyễn Văn Thư, nguyên Hiệu trưởng Đại học GTVT thành phố Hồ Chí Minh. PGS. TS. Vũ Văn Quân, Chủ nhiệm khoa Sử Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đạo diễn, NSND. Trần Đắc (19? - 1995), quê xã Cổ Am, cố Phó Giám đốc Nghệ thuật Xưởng phim Truyện Việt Nam. Đạo diễn, NSND. Phạm Văn Khoa (1913 – 1992), quê thị trấn Vĩnh Bảo, cố Giám đốc hãng phim truyện Việt Nam. Nhà văn Khái Hưng. Nhà văn Trần Tiêu. Nhà thơ Thi Hoàng - Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Nhà văn Trung Trung Đỉnh - Giải thưởng văn học ASEAN, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Lê Văn Thành, (1962 - 2023), quê xã Tân Liên, cố Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bí thư Thành ủy Hải phòng. Phạm Văn Hưng, sinh năm 1958, quê thôn An Ngoại, xã Tân Liên, Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2.
Kinh tế Vĩnh Bảo chủ yếu dựa vào nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Huyện Vĩnh Bảo có ít các làng nghề và nghề truyền thống. Nhóm mộc điêu khắc có làng nghề Bảo Hà. Nhóm nghề dệt chiếu ở Đồng Minh số hộ tham gia giảm nhiều, có nguy cơ mai một. Nhóm nghề thương mại dịch vụ hầu như chưa phát triển đáng kể ở tất cả các xã; Vĩnh Bảo thuộc nhóm những huyện có tỉ lệ số hộ tham gia lĩnh vực thương mại dịch vụ thấp nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng. Các làng nghề, ngành nghề phụ ở huyện Vĩnh Bảo như: Làm con giống rối nước Nhân Mục (Nhân Hòa); Làng nghề tạc tượng, sơn mài Bảo Hà (Đồng Minh); Nghề trồng và chế biến thuốc lào Lý Học; Làng nghề vớt cá bột nuôi cá giống Hội Am (Cao Minh); Nghề dệt chiếu xã Đồng Minh; Nghề trồng và chế biến thuốc lào Liên Am.(Tải File đính kèm thứ 1), (Tải File đính kèm thứ 2), (Tải File đính kèm thứ 3), (Tải File đính kèm thứ 4), (Tải File đính kèm thứ 5), (Tải File đính kèm thứ 6)
Hải Phòng là thành phố trực thuộc Trung ương - là đô thị loại 1 cấp quốc gia gồm 7 quận (Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê Chân, Dương Kinh, Đồ Sơn, Kiến An và Hải An), 6 huyện ngoại thành (Thuỷ Nguyên, An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo) và 2 huyện đảo (Cát Hải, Bạch Long Vĩ) với 223 xã, phường và thị trấn. Diện tích tự nhiên là 1.507,57 km2. Tính đến 2020, dân số Hải Phòng là 2.028.514 người. Hải Phòng ngày nay là thành phố cảng quan trọng, đầu mối giao thông quốc tế, cửa ngõ ra biển của các tỉnh phía Bắc Việt Nam; đồng thời là trung tâm kinh tế, công nghiệp - thương mại, du lịch, dịch vụ và văn hóa; vùng động lực phát triển quan trọng của đất nước. Nằm trong hệ tọa độ địa lý 20 độ 30 phút 39 giây đến 21 độ 1 phút 15 giây vĩ độ Bắc và 106 độ 23 phút đến 107 độ 08 phút 39 giây kinh độ Đông, giáp các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, nhìn ra biển Đông với 125 km bờ biển và các cụm đảo Long Châu, Cát Hải, Cát Bà, Bạch Long Vỹ…, Hải Phòng có vị thế chiến lược về địa kinh tế, chính trị, văn hóa và quốc phòng-an ninh của đất nước. Được thành lập vào những năm 80 của thế kỷ thứ 19, Hải Phòng là một thành phố trẻ, ra đời trên nền tảng của một vùng đất có bề dầy lịch sử và văn hóa lâu đời của nước ta.
Về tự nhiên: Hải Phòng là vùng đất cổ có lịch sử tiến hóa địa chất lâu dài từ hàng trăm triệu năm trước; có cảnh quan địa hình và hệ thực vật, động vật ở các vùng đồi núi, đồng bằng, vùng cửa sông, vịnh biển và hải đảo vô cùng phong phú, đa dạng.
Về con người: khoảng 2 vạn năm trước, người nguyên thủy đã sinh sống ở Hải Phòng. Tiếp đó, các chứng tích lịch sử từ Cái Bèo (Cát Bà), Núi Voi (An Lão), Tràng Kênh (Thủy Nguyên), Việt Khê (Thủy Nguyên) là những nét gạch nối tuyệt đẹp của con người nơi đây bước từ thời đại đồ đá sang thời đại đồ kim khí (đồ đồng, đồ sắt). Đây là chủ nhân của văn hóa vật chất ven biển - văn hóa Hạ Long, đồng thời giao thoa và góp phần tạo dựng nền văn minh sông Hồng của đân tộc Việt Nam.
Về truyền thống lịch sử, văn hóa: Ngay từ thủa các vua Hùng dựng nước, Hải Phòng đã là một trong mười lăm Bộ của nước Văn Lang. Lịch sử Hải Phòng là lịch sử của lớp lớp thế hệ người Hải Phòng từ khắp mọi miền đất nước và cả người nước ngoài nối tiếp nhau đến đây để cùng nhau dựng xây, phát triển và bảo vệ vùng đất "đầu sóng", "đầy nắng" "đầy gió", "Phên dậu" phía Đông Tổ quốc này. Tụ cư lấn biển, lập ấp dựng làng, vật lộn với gió bão, chiến đấu với giặc cướp, giặc ngoại xâm, chung lưng xây dựng cuộc sống, là nét quy luật của lịch sử hình thành và phát triển Hải Phòng. Cần cù sáng tạo trong lao động; cởi mở, phóng khoáng, trọng nghĩa trong giao tiếp; yêu quê hương, đất nước nồng nàn, trung dũng, kiên cường trước thiên nhiên, trước giặc giã; dân chủ trước những bất bằng xã hội, là đặc tính, bản sắc văn hóa của người Hải Phòng được hình thành trong quá trình chinh phục và giữ gìn mảnh đất đầu sóng, ngọn gió này của đất nước Việt Nam.
Trong cuộc chiến nghìn năm chống Bắc thuộc, người Hải Phòng luôn tỏ rõ tinh thần yêu nước, đấu tranh giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc khi cùng Nữ tướng Lê Chân lập ấp, dựng làng, tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Đông Hán (năm 40-43), lập nên "Hải tần phòng thủ". Người Hải Phòng liên tục tham gia các cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (năm 542) đánh đuổi quân Lương, lập nước Vạn Xuân; giúp Hậu Lý Nam Đế kháng chiến chống quân Tùy xâm lược (năm 603); tham gia các cuộc khởi nghĩa chống lại quân xâm lược nhà Đường; đỉnh cao là tham gia vào trận đại phá quân Nam Hán của Ngô Quyền trên dòng sông Bạch Đằng năm 938, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc ta. Từ đại thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán đến đại thắng Bạch Đằng năm 981 của Lê Hoàn trong kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất; đặc biệt là đại thắng Bạch Đằng năm 1288 của quân và dân Nhà Trần đập tan mộng xâm lăng Đại Việt và bá chủ thế giới của đế quốc Nguyên Mông, Hải Phòng là nơi hồn thiêng sông núi hội tụ, kết tinh và tỏa sáng truyền thống Bạch Đằng hết sức vẻ vang của dân tộc ta, của người Hải Phòng. Cùng với truyền thống yêu nước nồng nàn, người Hải Phòng cũng luôn tỏ rõ tinh thần dân chủ, không chịu khuất phục trước áp bức, cường quyền khi tích cực tham gia các cuộc khởi nghĩa nông dân do Nguyễn Hữu Cầu và Phan Bá Vành lãnh đạo chống lại các tập đoàn phong kiến thối nát. Cần cù trong lao động, người Hải Phòng đã tỏ rõ năng lực sáng tạo, luôn sáng tạo trong dựng xây đời sống vật chất và đời sống tinh thần thấm đẫm bản sắc văn hóa biển qua kỹ thuật tinh xảo chế tác đồ đá ở Cái Bèo (Cát Bà), Tràng Kênh (Thủy Nguyên), đúc đồng Việt Khê (Thủy Nguyên), tạc tượng (Đồng Minh, Vĩnh Bảo)…đến những sinh hoạt lễ hội văn hóa truyền thống như hát đúm, chọi trâu, đánh đu, đánh vật, đua thuyền, múa rối nước…Với gần 100 vị đỗ đại khoa qua các khoa thi thời phong kiến và với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và các học trò xuất sắc của ông, đủ thấy tài hoa của người Hải Phòng góp phần vào tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam… Chính trên nền tảng bề dầy lịch sử văn hóa, truyền thống Bạch Đằng yêu nước vẻ vang ấy và với tư cách là một thành phố Cảng lớn thứ ba ở Đông Dương, một trong những cái nôi ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam mà Hải Phòng đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh) lựa chọn là một trong những đầu cầu để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào trong nước từ giữa những năm 20 của thế kỷ thứ 20, từng bước kết hợp nhuần nhuyễn với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để tất yếu dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03-02-1930 và của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hải Phòng vào tháng 4-1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ năm 1930-1945, Hải Phòng luôn là một trong những trung tâm phong trào cách mạng của cả nước, góp phần làm nên cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong lịch sử dân tộc ta. Những năm 1946-1955, Hải Phòng là địa phương "đi trước", "về sau" trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Bắc với truyền thống "đường 5 anh dũng", "đường 10 quật khởi", với các chiến công vang dội "Sở Dầu'', "Cát Bi" rực lửa…hết sức vẻ vang. Trong những năm 1955-1975, Hải Phòng là địa phương luôn gương mẫu đi đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cùng cả nước kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi; vinh dự được 9 lần đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng cho Đảng bộ, quân và dân thành phố Hải Phòng các chữ vàng "Trung dũng", "Quyết thắng". Từ năm 1976 đến nay, Hải Phòng đã luôn nêu cao tinh thần chủ động, năng động, sáng tạo trong góp phần hình thành đường lối đổi mới của Đảng; nhận thức ngày càng sâu sắc yêu cầu phải là địa phương đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… Ngoài tên gọi “Thành phố Cảng, hay “Đất Cảng”, việc hoa Phượng đỏ được trồng rộng rãi nơi đây, và sắc hoa đặc trưng trên những con phố, cũng khiến Hải Phòng được biết đến với cái tên đầy thi vị là “Thành phố Hoa phượng Đỏ”. Loài hoa có đặc điểm nở hoa rực rỡ nhất vào những ngày đầu tiên của mùa hè ấy càng gắn duyên bền chặt với Hải Phòng hơn bởi đó cũng đúng vào dịp diễn ra các ngày lễ lớn của thành phố. Bắt đầu từ ngày hội Thống nhất đất nước, đến chiến thắng Điện Biên Phủ, sinh nhật Hồ Chủ tịch và đặc biệt là dịp tổ chức lễ hội Hoa Phượng Đỏ chào mừng ngày Giải phóng Hải Phòng 13-5. Trải qua những thăng trầm lịch sử, gắn bó với những buồn vui, nỗi niềm của con người, của mảnh đất nơi đầu sóng ngọn gió, loài hoa với những cánh mỏng manh, màu “như lửa cháy khát khao” ấy đã trở thành loài hoa biểu trưng cho hồn đất, hồn người Hải Phòng. Loài hoa ấy cũng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, nhạc họạ… trong bao thập niên nay. Ngày 07-12-2012, tại kỳ họp thứ 5, Hội đồng nhân dân thành phố khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 16/NQ-HĐND lựa chọn hoa Phượng Đỏ là biểu trưng hoa của thành phố Hải Phòng. Từ nền tảng và cội nguồn sức mạnh của bề dầy truyền thống lịch sử và chiều sâu văn hóa của người Hải Phòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hải Phòng hôm nay quyết tâm phấn đấu "Trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước; có công nghiệp phát triển hiện đại, thông minh, bền vững; kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại kết nối thuận lợi với trong nước và quốc tế bằng cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không; trọng điểm dịch vụ logistics; trung tâm quốc tế về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, kinh tế biến; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm với các thành phố tiêu biểu ở Châu Á; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững" theo đúng Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Có thể khẳng định, Hải Phòng là thành phố có lịch sử vinh quang hàng ngàn năm, nơi hội tụ hồn thiêng sông núi, kết tinh, tỏa sáng truyền thống Bạch Đằng. Các thế hệ người Hải Phòng - chủ nhân của vùng đất "đầu sóng", "ngọn gió" này đã nối tiếp nhau kiên cường trụ vững, tạo dựng nên truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; yêu nước nồng nàn; cởi mở, phóng khoáng, trọng nghĩa trong giao tiếp; dân chủ trước áp bức cường quyền; góp phần xứng đáng vào tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đặc biệt là trong thời đại Hồ Chí Minh, Hải Phòng đã đi vào lịch sử với tư cách là thành phố "Trung dũng-quyết thắng", đoàn kết, chủ động, năng động, sáng tạo, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi vào thơ và nhạc với tên gọi “Thành phố Hoa phượng Đỏ" luôn thắm mãi bản sắc văn hóa của một thành phố biển...(Tải File đính kèm thứ 1), (Tải File đính kèm thứ 2), (Tải File đính kèm thứ 3), (Tải File đính kèm thứ 4), (Tải File đính kèm thứ 5), (Tải File đính kèm thứ 6), (Tải File đính kèm thứ 7), (Tải File đính kèm thứ 8), (Tải File đính kèm thứ 9), (Tải File đính kèm thứ 10), (Tải File đính kèm thứ 11), (Tải File đính kèm thứ 12)
Xin gửi tới quý độc giả nhân dịp kỉ niệm 60 năm thành lập Trường THCS Đồng Minh (1963-2023) để chúng ta cùng ôn lại một chặng đường gian nan vất vả, nhưng đầy vẻ vang của sự nghiệp giáo dục xã nhà!(Tải File đính kèm)
Ngày 19/11/2021 Báo Hải Phòng đã đưa tin về thành tích của nhà trường (được công nhận Trường đạt chuẩn QG).